Tôi đã trò chuyện vài lần với
một số người về vấn đề này. Tro
ng đ??, có những người nói trong vai trò cơ bản là
một nhân chứng, họ cảm thấy việc quay phim rất quan trọng, ví dụ video sẽ giúp cảnh sát truy tìm tên tội phạm", Van Bommel nói.
"Còn
một nguyên nhân khác có vẻ k
hông chính đáng: Những
Tháng trước, trên Twitter tại Mỹ có
một đoạn video ngắn được lan truyền rất mạnh. Nó quay lại cảnh
một người đàn ông lớn tuổi đang vật lộn trong làn nước chảy xiết, dưới ga tàu điện ngầm New York. Suýt chút nữa, ông ấy đã bị cuốn vào gầm toa tàu đang chạy.Những giây cuối cùng của video, chúng ta thấy người đàn ông quỳ gối nhìn thẳng vào camera như thể buộc tội: Tại sao k
hông xuống giúp tôi mà lại đứ
ng đ?? quay phim?Hàng trăm người xem đoạn video trên Twitter cũ
ng đ?? bình luận với những câu hỏi tương tự: "Sao k
hông bỏ điện thoại xuống mà giúp ông ấy đi?", "Chúng ta bây giờ chỉ giỏi quay phim, chứ chẳng bao giờ giúp đỡ khi có thể".K
hông khó để nhận ra, đó chính là những bản cáo trạng quen thuộc mà mọi người vẫn thấy trong thời đại truyền t
hông xã hội: Chúng ta có xu hướng quay lại các video để câu like trên mạng, hơn là làm
một việc tốt ngoài đời thực?Một người đàn ông lớn tuổi bị nước cuốn trong gà tàu điện ngầm New YorkHiệu ứng người ngoài cuộcNăm 1968, hai nhà tâm lý học xã hội người Mỹ John Darley và Bibb Latane đã nghiên cứu để đưa ra
một thuật ngữ mô tả hiện tượng nhữ
ng đ??m đông đứng nhìn mà k
hông giúp đỡ người bị nạn.Họ gọi đó là "Bystanders Effect", hay hiệu ứng người ngoài cuộc. Theo nghiên cứu của Darley và Latane, khi
một tình huống khẩn cấp xảy ra, những người quan sát nhiều khả năng sẽ hành động khi chỉ có ít hoặc k
hông có nhân chứng nào ở đó.Ngược lại, càng có nhiều người cùng nhau quan sát tình huống, cơ hội có
một người đứng ra giúp đỡ càng ít lại. Giả thuyết giải thích: Khi đứng trong
một đám đông, mọi người sẽ coi bản thân mình là
một phần của đám đô
ng đ?? chứ k
hông phải người có trách nhiệm với sự việc. Kết quả là k
hông ai đứng ra chịu trách nhiệm hành động.Một trong những ví dụ điển hình nhất được dẫn chứng cho hiệu ứng người ngoài cuộc là vụ án Kitty Genovese,
một người phụ nữ 28 tuổi ở New York bị theo dõi, tấn công tình dục và giết chết bên ngoài tòa nhà chung cư của cô ấy vào năm 1964.Vụ án được cho là xảy ra dưới sự chứng kiến của tổng cộng 38 nhân chứng, theo
một bài báo đăng trên New York Times. K
hông ai trong số họ can thiệp để giúp đỡ nạn nhân, thậm chí k
hông ai gọi cảnh sát.Bài báo đã gây ra
một làn sóng phẫn nộ trong công chúng, chính nó cũng thôi thúc Darley và Latane thực hiện nghiên cứu c
ủa mình. Nhưng sự thật là gì? New York Times đã thổi phồng sự việc.Các nhà nghiên cứu cho thấy vụ án thực tế k
hông có tới 38 nhân chứng,
một số nhiều nhân chứng cũng chỉ nghe thấy tiếng Genovese hét lên, mà k
hông biết đó là tiếng kêu cứu. Tên sát nhân đã kéo cô ấy vào
một góc khuất, sau đó k
hông ai có thể nhìn thấy Genovese nữa.Quan trọng nhất, k
hông phải tất cả các nhân chứng đều bàng quang đứng nhìn. Hai nhân chứ
ng đ?? gọi cảnh sát,
một người đàn ông lần theo dấu vết của tên sát nhân, chỉ tiếc là anh ta k
hông kịp cứu Genovese hay ít nhất là can thiệp hoặc làm điều gì đó. Cuối cùng, có
một người phụ nữ đã đỡ Genovese và ở bên cô ấy trong những giây phút cuối đời.Hiệu ứng người ngoài cuộcVậy là thực tế, đã có những nhân chứng trông thấy vụ tấn công Genovese và lựa chọn k
hông làm gì cả. Nhưng cũ
ng đ?? có những người hành động để giúp đỡ. Đó k
hông phải lời biện minh cho hiệu ứng người ngoài cuộc k
hông xảy ra ở đây.Những khi chúng ta phân tích kỹ sẽ thấy được sự phức tạp của vấn đề.Một nghiên cứu đánh giá tổng hợp năm 2011, nghiên cứu lớn và đẩy đủ nhất về hiệu ứng người ngoài cuộc cho thấy: Trong
một tình huống khẩn cấp có tính rõ ràng - chẳng hạn như khi
một người phụ nữ bị cướp ngã ra đất và khóc - mọi người có xu hướng hành động ngay cả khi đã có rất nhiều nhân chứng.Trong hầu hết các tình huống, đàn ông có nhiều khả năng giúp đỡ hơn phụ nữ, chủ yếu là nhờ sự tự tin về mặt thể chất của họ sẽ tạo ra sự khác biệt. Mọi người sẽ hành động khi thủ phạm vẫn còn ở hiện trường so với khi hắn đã trốn thoát, và người quen thì có xu hướng giúp đỡ nhiều hơn người lạ.Các tác giả trong nghiên cứu kết luận: Mặc dù hiệu ứng người ngoài cuộc có xảy ra, nhưng nó k
hông lớn như những gì chúng ta tưởng tượng. Trong
một tình huống nguy cấp, chắc chắn mọi người vẫn có cơ hội được giúp đỡ ngay cả khi xung quanh họ là
một đám đông hiếu kỳ.Và mọi chuyện sẽ còn trở nên thú vị hơn nữa, khi tình huố
ng đ?? xuất hiện thêm những ống kính máy ảnh.Những chiếc camera nhắc nhở ý thức trách nhiệmLinus Andersson là
một giảng viên truyền t
hông đa phương tiện tại Đại học Halmstad ở Thụy Điển. Trong
một nghiên cứu thực hiện cùng người đồng nghiệp Ebba Sundin c
ủa mình, anh đã cố gắng tìm hiểu lý do thực sự đằng sau lựa chọn quay phim thay vì giúp đỡ người bị nạn.Mặc dù chưa thể đưa ra
một câu trả lời cuối cùng, Andersson đã có
một số giả thuyết giải thích hiện tượ
ng đ??."Quay phim dường như là
một phương tiện giúp nắm bắt được sự kiện ngay lập tức", anh nói. "Nó mang lại cho bạn cảm giác đã làm việc gì đó - thay vì chỉ bị động"."Quay phim nghĩa là bạn đã trở thành
một nhân chứng tích cực", Andersson giải thích thêm. Nó cho mọi người
một cái cớ khi họ cảm thấy k
hông thể, hoặc k
hông muốn giúp đỡ.Quay phim cho mọi người
một cái cớ khi họ cảm thấy k
hông thể, hoặc k
hông muốn giúp đỡ.Trong khi chưa có nhiều nghiên cứu giải thích lý do tại sao mọi người cảm thấy bị thôi thúc phải rút điện thoại ra quay phim lại tình huống họ chứng kiến, có
một số nghiên cứu lại cho thấy mọi người có nhiều khả năng sẽ giúp đỡ khi sự việc được quay phim lại.Marco van Bommel, phó giáo sư tâm lý học tại Đại học Mở ở Hà Lan, đã tiến hành nghiên cứu sự hiện diện của camera ảnh hưởng thế nào đến hiệu ứng người ngoài cuộc.Trong
một nghiên cứu từ năm 2013, ông và các nghiên cứu viên c
ủa mình đã tạo ra hai tình huống. Trong tình huống thứ nhất,
một người lấy trộm tiền của
một người khác, dưới sự chứng kiến của
một số nhân chứng. Tình huống còn lại diễn ra giống như vậy, chỉ khác là nó xảy ra ở nơi có camera an ninh.Kết quả cho thấy sự xuất hiện của camera đã khiến cho các nhân chứng giúp đỡ nhiều hơn.Van Bommel cũ
ng đ?? tiến hành
một nghiên cứu tương tự khảo sát sự sẵn sàng giúp đỡ c
ủa mọi người trên môi trường trực tuyến. Tro
ng đ??, các tình nguyện viên cùng tham gia vào
một diễn đàn và được yêu cầu giúp làm
một bảng khảo sát online.Một lần nữa, kết quả chỉ ra những người có tên tài khoản được nhóm nghiên cứu cố tình làm nổi bật hơn, và những người bật webcam (hai yếu tố khiến họ có cảm giác bị theo dõi hoặc quan sát bởi người khác) là những người làm khảo sát nhiều hơn.Một nghiên cứu gần đây tiếp tục ủng hộ những phát hiện của van Bommel. Các nhà nghiên cứu đã xem xét các cảnh quay từ camera an
ninh trong 219 tình huống bạo lực ở Hoa Kỳ, Hà Lan và Nam Phi. Họ thấy rằng tới 90% trường hợp, ít nhất
một người đã cố gắng can thiệp.Điều đáng ngạc nhiên nhất trong nghiên cứu này, đó là khi càng có nhiều nhân chứng góp mặt trong sự kiện, cơ hội có
một người đứng ra giúp đỡ càng lớn. Đó là
một mâu thuẫn trực tiếp với lý thuyết cũ về hiệu ứng người ngoài cuộc cho rằng mọi người ít có khả năng giúp đỡ khi họ ở tro
ng đ??m đông.Hiệu ứng người ngoài cuộc: Tại sao mọi người chỉ quay phim chứ k
hông giúp đỡ?Van Bommel và các nhà nghiên cứu c
ủa mình suy đoán rằng, nhìn chung, mọi người sẽ giúp đỡ nhiều hơn trong các tình huống mà họ cảm thấy như đang bị theo dõi. "Đôi khi có
một cái gì đó trong môi trường trực tiếp giúp họ cảm thấy có trách nhiệm trở lại", anh nói.Những yếu tố này được Van Bommel và các chuyên gia gọi chung là "tín hiệu trách nhiệm", bao gồm: sự hiện diện của camera, gương, bảng tên hay bất kỳ điều kiện nào khác khiến
một người cảm thấy bị theo dõi hoặc nhắc nhở về quyền lực và trách nhiệm c
ủa mình."Chúng tôi nghĩ rằng khi mọi người cảm thấy có trách nhiệm, họ đột nhiên nghĩ nhiều hơn về thể diện của họ, về việc họ sẽ trông như thế nào khi thực hiện
một hành động nào đó hoặc k
hông hành động gì cả", anh nói. "Đối với tôi, có vẻ như camera trên điện thoại t
hông minh cũng có thể hoạt động như
một tín hiệu trách nhiệm".Tại sao mọi người quay phim mà k
hông giúp đỡ?Nói cách khác, nếu
một camera an
ninh hoặc webcam đã khiến người ngoài cuộc sẵn sàng nhảy vào tình huống và đưa bàn tay ra giúp đỡ, thì lý thuyết tương tự cũng có thể áp dụng khi có những chiếc camera điện thoại giơ lên.Điều này đưa chúng ta trở lại tình huống ban đầu, về người đàn ông suýt bị cuốn trôi trong ga tàu điện ngầm New York: Tại sao video đó lại xuất hiện? Đâu là lý do khiến người quay lại video đó quyết định rút điện thoại ra, thay vì lội xuống dòng nước và giúp đỡ nạn nhân?Cho tới hiện tại, chưa có bất kể
một nghiên cứu trực tiếp nào chỉ ra được nguyên nhân khiến mọi người k
hông giúp đỡ người bị nạn, mà lại rút điện thoại ra quay phim.Như
ng đ?? có
một vài giả thuyết.Quay phim và đăng tải lên mạng xã hội là
một cách để giải tỏa những cảm xúc tiêu cực"Tôi đã trò chuyện vài lần với
một số người về vấn đề này. Tro
ng đ??, có những người nói trong vai trò cơ bản là
một nhân chứng, họ cảm thấy việc quay phim rất quan trọng, ví dụ video sẽ giúp cảnh sát truy tìm tên tội phạm", Van Bommel nói. "Còn
một nguyên nhân khác có vẻ k
hông chính đáng: Những người trải nghiệm
một điều gì đó tồi tệ có thể cảm thấy bị căng thẳng hoặc sốc, v.v., và họ cần giải tỏa điều này bằng cách chia sẻ cảm xúc và trải nghiệm của họ với bạn bè".Quay phim và đăng tải đoạn video lên mạng xã hội là
một cách giúp họ giải tỏa những cảm xúc mà họ vừa phải chịu đựng.Van Bommel lưu ý rằng, trừ khi bạn thực sự ở trong tình huống, trường hợp này là có mặt ở dưới ga tàu điện ngầm New York với trước mặt là
một người đàn ông lớn tuổi bị nước cuốn, rất khó để biết chính xác bạn sẽ làm gì khi đó.Trong video này, có vẻ như người đàn ông đang cần
một sự giúp đỡ rõ ràng - nhưng nếu vì
một lý do nào đó mà bạn k
hông nhận ra tín hiệu cầu cứu của ông ấy, có thể là chính bạn cũng sẽ đứng nhìn.Hơn nữa, nếu bạn cảm thấy mình k
hông có khả năng giúp đỡ về mặt thể chất - nếu bạn còn nhỏ, là phụ nữ, hoặc bạn nghi ngờ về khả năng thể chất c
ủa mình - khả năng bạn cũng sẽ cảm thấy k
hông đủ thoải mái khi lội xuống dòng nước chảy xiết để giúp đỡ ai đó.Khi đó, bạn có thể cảm thấy mình sẽ có giá trị hơn khi đứng bên lề, quay lại sự kiện để cho thấy
một bằng chứng rằng ga tàu điện ngầm đang có
một cái bẫy nguy hiểm.Chúng ta k
hông hề vô tâm như cái cách nhiều người đang tưởng tượng và buộc tội.Mặc dù vậy, có
một tình huống cho thấy chắc chắn
một chiếc điện thoại sẽ cản trở khả năng nạn nhân nhận được sự giúp đỡ, đó là khi nhân chứng đang bận nói chuyện điện thoại với
một người khác.Một nghiên cứu năm 2013 đã tạo ra
một tình huống, tro
ng đ??
một người đeo nẹp chân giả vờ đánh rơi
một chồng tạp chí. Mục tiêu là đánh giá người ngoài cuộc có sẵn sàng giúp đỡ hay không. Kết quả chỉ ra những người đang nghe điện thoại thường bàng quang hơn.Các tác giả nghiên cứu giải thích, nói chuyện trên điện thoại với
một ai đó đã giúp cho bạn có cảm giác thuộc về - nghĩa là bạn đã thuộc về tình huống trong cuộc nói chuyện điện thoại, thuộc về người bạn đang nói chuyện với. Trách nhiệm với tình huống trước mặt của bạn dường như được hạ thấp xuống, ít nhất là trong cảm giác của bạn.Vậy đó là những giả thuyết và bằng chứng cho thấy sự hiện diện của điện thoại ảnh hưởng đến hành vi của người ngoài cuộc. Liệu bản thân việc giơ
một chiếc camera điện thoại lên có phải là đã giúp đỡ
một ai đó, khi làm tăng cơ hội
một người tro
ng đ??m đông bước ra và giúp đỡ hay không?Chúng ta sẽ cần nhiều hơn các nghiên cứu để trả lời cho câu hỏi này. Nhưng trong đoạn cuối video, có vẻ như người đàn ông ở ga tàu điện ngầm cũ
ng đ?? nhận được sự giúp đỡ.Thật khó để nói rằng con người bây giờ chỉ thích giơ những chiếc điện thoại lên thay vì đưa
một tay c
ủa mình ra cho người khác. Và đó là câu trả lời cho những bình luận buộc tội trên mạng xã hội: Chúng ta k
hông hề vô tâm như cái cách mà họ tưởng tượng.Tham khảo Medium
Nguồn bài viết : Xổ số Max 3D